Hiện nay vấn đề nhiễm bẩn trong thực phẩm đang trở thành nỗi lo chung của toàn xã hội. Vì vậy, việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cũng đã được quan tâm nhiều hơn, các cấp chính quyền, các lực lượng chức năng đã tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, phát hiện và xử lý nghiêm nhiều vụ vi phạm về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Song để tự bảo vệ mình, người tiêu dùng cũng phải thực sự sáng suốt lựa chọn, tìm mua các loại thực phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được các cơ quan chức năng kiểm định chứng nhận đảm bảo an toàn.

Trên thực tế sản phẩm thực phẩm có nhiều loại, song trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới một loại thực phẩm không thể thiếu trong mỗi bữa ăn hàng ngày, đó là các loại rau xanh. Các sản phẩm rau xanh có độ an toàn càng cao không chỉ giúp ta có được một bữa ăn ngon miệng mà còn bổ sung các vitamin cần thiết cho cơ thể, góp phần đảm bảo sức khỏe cho con người. Vì tầm quan trọng của rau an toàn (RAT) đối với sức khỏe cộng đồng, từ năm 2008 tổ chức VECO của Bỉ thông qua phòng Kinh tế, Thành phố Việt Trì hỗ trợ triển khai dự án RAT trên địa bàn xã Tân Đức- một xã ven sông Hồng vốn có nghề trồng và cung cấp lượng lớn rau xanh cho người dân thành phố từ nhiều năm nay. Trong đó giai đoạn đầu (2008-2010) thực hiện thí điểm tại khu 2 và mở rộng tiếp sang khu 1, khu 3 với 281 hộ tham gia, với diện tích trồng rau an toàn là 9,7ha. Tiếp đó giai đoạn 2 (từ năm 2011 đến năm 2013) dự án tiếp tục mở rộng ra tất cả 4 khu của xã, hỗ trợ nông dân nâng cao năng lực sản xuất, chứng nhận và tiêu thụ sản phẩm; thành lập HTX sản xuất, kinh doanh rau an toàn và nâng cao nhận thức cho người tiêu dùng về RAT.

Theo đánh giá của cơ quan chức năng thì qua một thời gian thực hiện có thể khẳng định các sản phẩm RAT Tân Đức cung cấp cho người tiêu dùng đều là những sản phẩm thực sự an toàn.

Trao đổi với chúng tôi, ông Lê Toàn- Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh cho biết: “Chi cục BVTV đã tổ chức điều tra, khảo sát, đánh giá nguy cơ gây ô nhiễm của các hộ trồng rau trên địa bàn xã, tổ chức lấy mẫu đất, mẫu nước gửi phân tích giám định hàm lượng kim loại nặng như Arsen, Cadimi, Chì, Đồng, Kẽm, Thủy ngân... Sau khi rà soát, lập danh sách, đánh mã số quản lý cho từng hộ và xây dựng bản đồ thửa sản xuất rau cho từng khu dân cư, theo dõi chặt chẽ quy trình sản xuất, Chi cục đã lập hồ sơ trình Sở NN& PTNT cấp giấy chứng nhận vùng đủ điều kiện sản xuất RAT cho 372 hộ với diện tích 13,6 ha. Đồng thời tổ chức các lớp tập huấn về: Quy trình sản xuất RAT theo VietGAP, hiểu biết về thuốc bảo vệ thực vật và kỹ thuật sử dụng an toàn, hiệu quả, phương pháp ghi chép nhật ký đồng ruộng, kỹ thuật thu hoạch, sơ chế bảo quản, đóng gói sản phẩm RAT; hỗ trợ xây dựng nhà lưới đơn giản (cọc tre, cọc bê tông, phủ lưới nilon), xây dựng vườn ươm... Triển khai các mô hình sản xuất rau an toàn theo ViệtGAP, đưa vào trồng nhiều giống rau mới làm phong phú sản phẩm RAT đáp ứng nhu cầu thị trường... ”.

Hiện nay, trung bình mỗi hộ sản xuất RAT ở Tân Đức cho thu lãi 20 triệu đồng/sào/năm, nhiều hộ còn cho thu 25 triệu đồng/sào/năm. Ông Lê Văn Đức ở khu 1 cho biết: “Việc thực hiện quy trình sản xuất RAT không quá phức tạp như nhiều người nghĩ mà hiệu quả kinh tế lại cao. Với hơn 2 sào đất vườn, ông quy hoạch trồng nhiều loại rau, củ, quả, mùa nào thức ấy, quá trình sản xuất thực hiện tuân thủ theo quy trình của ViệtGAP, sản phẩm qua kiểm tra đảm bảo chất lượng được người tiêu dùng tín nhiệm nên việc tiêu thụ khá thuận lợi, mỗi năm từ việc trồng và bán rau, gia đình ông có thu nhập ổn định 50- 60 triệu đồng”.

Được biết thời gian qua, Chi cục BVTV đã tổ chức lấy 68 mẫu RAT tại Tân Đức để phân tích nhanh dư lượng thuốc Bảo vệ thực vật và lấy 11 mẫu gửi phân tích tại phòng thí nghiệm của Cục BVTV, kết quả cho thấy các mẫu đều không phát hiện thấy dư lượng thuốc BVTV hay kim loại nặng. Đây là một tín hiệu rất tốt cho sức khỏe cộng đồng. Như vậy việc sản xuất RAT ở Tân Đức không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ nông dân trực tiếp sản xuất mà còn góp phần quan trọng trong việc cung cấp các sản phẩm nông sản, thực phẩm đảm bảo an toàn cho sức khỏe con người, cho giống nòi trong điều kiện thực tế hiện nay. Vì vậy, mô hình này cần được tiếp tục nhân rộng tại nhiều địa phương trong tỉnh, nhất là ở những vùng đất có truyền thống thâm canh sản xuất rau màu.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn